Rẽ mỏ thìa có kích thước tương đối nhỏ, chừng 15cm tương tự với một số loài rẽ trong chi Calidris. Điểm nhận dạng đặc trưng của loài này là chiếc mỏ hình chiếc thìa với phần chóp mỏ dẹt và phình rộng ra.
Thông tin
RẼ MỎ THÌA – Calidris pygmeus (Linnaeus, 1758)
Cực kỳ Nguy cấp (IUCN)
Phân loại
Bộ Rẽ – CHARADRIIFORMES
Họ Rẽ – Scolopacidae
Giống – Eurynorhynchus
Mô tả
Ngoài mùa sinh sản, rẽ mỏ thìa có bộ lông khá giống với Rẽ cổ xám, chân có màu đen. Nhưng có màu trắng sáng hơn ở cổ và ngực, vệt trắng trên mắt rõ hơn. Trong mùa sinh sản, chim có màu hung xung quanh đầu, ức và lưng.
Ở Việt Nam mới chỉ ghi nhận bộ lông ngoài mùa sinh sản của loài này.
Rẽ mỏ thìa thường kiếm ăn chung với các đàn rẽ cỡ nhỏ khác ở một số bãi triều ngập nước . Chúng là loài kiếm ăn khác năng động, với các động tác mỏ nhanh và chạy quan để đuổi mồi.
Phân bố
Sandpipers sinh sản ở vùng cực đông bắc nước Nga dọc theo bờ biển Bering của bán đảo Chukotsk và xuống phía nam bán đảo Kamchatka vào khoảng cuối tháng 5 hoặc đầu tháng 6 và đẻ một lứa khoảng 4 quả trứng, con non nở trong 19 đến 23 ngày. Sau khi nở, con non rời tổ trong vòng một ngày và ngay lập tức bắt đầu tự kiếm ăn. Con đực dẫn chúng ra khỏi tổ và chăm sóc chúng trong khoảng 20 ngày sau đó. Con cái rời đi, di cư về phía nam và vài tuần sau con non cũng sẽ tự di cư theo sau xuống bờ biển Thái Bình Dương của Nga, Nhật Bản, Triều Tiên và Hàn Quốc đến các khu vực trú đông chính của chúng ở Đông Nam Á.
Ở Việt Nam, ghi nhận sự xuất hiện của loài này ở một số địa điểm vào mùa di cư như Bãi biển Cần Giờ, TPHCM; Gò Công, Tiền Giang; Nghĩa Hưng, Nam Định.
Thức ăn
Các nghiên cứu ở khu vực sinh sản cho thấy khẩu phần thức ăn của Rẽ mỏ thìa gồm nhiều loại ấu trùng và động vật không xương sống trưởng thành, đặc biệt là muỗi vằn, muỗi, ruồi, bọ cánh cứng và nhện. Chúng cũng ăn một loại thực vật bao gồm hạt cỏ và quả. Trên bãi trú đông và trong quá trình di cư, chúng ăn nhiều loại động vật không xương sống ở biển bao gồm giun nhiều tơ hay tôm.
Hiện trạng
Hiện nay loài này đang bị đe doạ tuyệt chủng ở mức đó Cực kỳ nguy cấp (Cr) với ước chứng 100 cặp đôi sinh sản còn lại.
Hai nguyên nhận chính khiến loài này bị suy giảm là: Mất các môi trường kiếm ăn trong mùa di cư và Hoạt động săn bắt trong mùa di cư tại các điểm dừng chân của loài này.